
1 Trực tiếp:
Toxoplasma gondii có thể được phân lập từ nuôi cấy các dịch cơ thể (máu, dịch não tủy, dịch rửa phế quản-phế nang) hay các mẫu sinh thiết mô hoặc tiêm trong màng bụng ở chuột nhắt.
Phản ứng PCR phát hiện DNA của Toxoplasma gondii có thể chẩn đoán bệnh. Phản ứng PCR với dịch não tủy có độ nhạy từ 12 đến 70% (thường là 50-60%) và độ đặc hiệu 100% khi bị viêm não do Toxoplasma. Phát hiện DNA của Toxoplasma gondii trong nước ối cũng giúp chẩn đoán nhiễm trùng bẩm sinh trong tử cung.
2. Gián tiếp: phát hiện kháng thể
- Trẻ em khi nghi ngờ bị bệnh Toxoplasma bẩm sinh phải được thử IgM và IgA- capture EIA. Phát hiện kháng thể IgA đặc hiệu với Toxoplasma là nhạy hơn phát hiện IgM ở trẻ bị Toxoplasma bẩm sinh.
- Chú thích:*: đối với bệnh nhân > 1 tuổi
–: kết quả âm tính; +: kết quả dương tính; +_: kết quả không rõ ràng.
3. Chẩn đoán hình ảnh
Chụp CT não thấy nhiều thương tổn có đường viền đậm và giảm âm (hypodense ring-enhancing lesions) ở vùng tiếp nối vỏ-tủy não trong 70-80% bệnh nhân AIDS bị bệnh Toxoplasma ở não. Chụp MRI có độ nhạy cao hơn chụp CT. Cả 2 phương pháp này còn giúp đánh giá hiệu quả điều trị (thương tổn giảm hay biến mất).
4. Điều trị
Các thuốc hiện nay chỉ có tác dụng trên thể phát triển nhanh (tachyzoit) và không có tác dụng trên các thể phát triển chậm (bradyzoit). Pyrimethamine là thuốc có hiệu quả nhất. Khi dùng pyrimethamine thì phải dùng thêm acid folinic để tủy xương không bị ức chế. Pyrimethamine được dùng phối hợp với một thuốc thứ hai (sulfadiazine, clindamycin). Phối hợp thuốc có hiệu quả nhất là pyrimethamine cộng với sulfadiazine hay trisulfapyrimidine (như sulfamerazine